Tỉ lệ lạm phát sẽ giảm
Sự thật khó chối bỏ là tất cả chúng ta đang phải sống dưới lưỡi hái của tử thần COVID-19 này cho đến khi có vaccine hoặc phương pháp điều trị hiệu quả. Một trong những vấn đề chính sách quan trọng hơn từ cuộc khủng hoảng COVID-19 là hiệu quả của các biện pháp tài khóa chưa từng có được thực hiện để giảm thiểu tác động kinh tế và xã hội.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công toàn cầu dự báo vượt 101% tổng sản phẩm quốc nội trong năm nay, tăng 19% so với năm trước. Kết hợp với việc mua mạnh trái phiếu chính phủ của các Ngân hàng trung ương, cuộc tranh luận đang diễn ra liên quan đến hậu quả của việc mở rộng tài khóa và kiếm tiền hoàn toàn từ các Ngân hàng trung ương.
Gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều lo ngại quá mức về việc tỉ lệ lạm phát thấp đang làm khổ các nền kinh tế. IMF dự báo, tỉ lệ lạm phát sẽ giảm từ mức 1,4% của năm ngoái xuống còn 0,3% trong năm 2020.
Tuy nhiên, ông Olivier Blanchard, Cựu chuyên gia kinh tế của IMF lại có ý kiến trái chiều rằng “lạm phát cao là không thể nhưng không phải là hoàn toàn không có khả năng xảy ra ở các nền kinh tế tiên tiến”.
Vậy đâu là bản chất của sự co thắt kinh tế mà chúng ta đang phải đối mặt. Khi đại dịch suy thoái và nền kinh tế mở cửa trở lại, chúng ta không thể mong đợi nhu cầu tăng đủ để bù đắp cho sự co lại ban đầu. Về mặt kinh tế, bản thân tổn thất ban đầu không phải là “có thể phục hồi” vì thời gian sẽ làm mờ những vết sẹo của nền kinh tế.
Trụ sở của Ngân hàng Nhật Bản tại Tokyo: Ngân hàng trung ương đã quyết định giữ nguyên các công cụ chính sách chính. GDP của Nhật Bản sẽ giảm 4,7% trong năm tài khóa 2020. Nguồn ảnh: Reuters.
Nhiều yếu tố thúc đẩy lạm phát đi xuống
Không giống như lý thuyết về chính sách tài khóa, khi biến động kinh tế giảm dần theo thời gian, chính phủ không thể thu lại tiền thuế bị mất. Bởi vì, nợ trong quá khứ tăng đã đi kèm với lạm phát cao, nên điều hiển nhiên là lạm phát sẽ theo sau sự gia tăng của nợ chính phủ trong tương lai. Vì vậy, chúng ta nên lo lắng về lạm phát, lạm phát thấp, hay giảm phát?
Lạm phát là sự gia tăng giá chung của hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế. Ngược lại, giảm phát là sự giảm giá chung đối với hàng hóa và dịch vụ, được biểu thị bằng tỉ lệ lạm phát giảm xuống dưới 0%.
Câu hỏi đầu tiên đặt ra là về giảm phát. Câu trả lời là “không”, miễn là các chính phủ và Ngân hàng trung ương vẫn quyết tâm ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống tài chính. Những mối nguy hiểm thường liên quan đến giảm phát thực tế là sản phẩm của sự sụp đổ của hệ thống tài chính, tiêu biểu là cuộc Đại suy thoái vào những năm 1930. Cố chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - ông Paul Volcker từng nói: “Giảm phát là một mối đe dọa gây ra bởi một sự cố nghiêm trọng của hệ thống tài chính”.
Thế còn lạm phát thì sao? Dù khó loại trừ khả năng này là kết quả có thể xảy ra, nhưng kịch bản ngắn hạn có khả năng cao hơn là sự kết hợp giữa tăng trưởng thấp, lạm phát thấp và lãi suất thấp. Theo lập luận được đặt ra bởi một nhà kinh tế học nổi tiếng khác của Mỹ, cựu Bộ trưởng Tài chính - ông Larry Summers, có rất nhiều thủ phạm có thể trong diện tình nghi cho kịch bản không mấy sáng sủa này bao gồm sự không chắc chắn tăng cao sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bất bình đẳng gia tăng, giá vốn hàng hóa giảm và dân số già.
Hiệu quả của nới lỏng tiền tệ xuất phát từ nhu cầu tương lai trước mắt cho đến hiện tại bằng cách tăng nợ, thông qua việc giảm tiết kiệm hoặc tăng các khoản vay. Chiến lược này hoạt động nếu cú sốc đánh vào nền kinh tế là tạm thời. Nhưng ông Masaaki Shirakawa cho rằng, những gì Nhật Bản trải qua trong 20 năm qua và những gì các nền kinh tế phát triển khác trải qua trong 10 năm qua cho thấy: Đó không chỉ là những "cú sốc" ngắn hạn.
Nếu việc nới lỏng tiền tệ kéo dài, nhu cầu tải trước chắc chắn sẽ giảm. Nhu cầu tải trước được định nghĩa là tập trung nỗ lực, chi phí hoặc chi phí khi bắt đầu dự án. Chẳng hạn như, ai đó mở một nhà hàng mới và dành phần lớn tiền vay kinh doanh của họ cho chi phí khởi nghiệp, không tiết kiệm bất kỳ khoản tiền nào cho các chi phí đến sau. Hơn nữa, vì đầu tư được thực hiện theo kỳ vọng về lợi nhuận, tỉ lệ đầu tư sản xuất sẽ giảm theo thời gian, do đó làm giảm tăng trưởng năng suất. Khi sự lan rộng tín dụng bị triệt tiêu bởi việc nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ, điều đó có thể dẫn đến tăng trưởng năng suất thấp hơn bằng cách giảm hiệu quả của thị trường tín dụng.
Tất cả các yếu tố này sẽ làm giảm nhu cầu vay tư nhân và chính phủ có thể tiếp tục vay tiền một cách trơn tru mà không phải trả lãi cao hơn. Điều đó có nghĩa là lạm phát có nhiều khả năng đi xuống hơn là tăng.
Các cuộc thảo luận chính sách hiện tại có xu hướng được đóng khung về triển vọng của lạm phát và khả năng các chính phủ tiếp tục vay tiền. Các nhà kinh tế thường lập luận rằng, chỉ cần tăng lãi suất ở những dấu hiệu đầu tiên của lạm phát là đủ. Nhưng ông Masaaki Shirakawa cho rằng: “Điều này là sai lầm. Vấn đề thực sự không phải là lạm phát, mà là tăng trưởng thấp”.